Thứ Bảy, 31 tháng 1, 2015

Ý nghĩa lá cờ chép Koi-nobori ở Nhật Bản

Treo cờ cá chép còn giúp người Nhật thực hiện mong muốn các bé trai trưởng thành khỏe mạnh và sự nghiệp tương lai sẽ thành danh như cá chép hóa rồng.
Ý nghĩa lá cờ chép Koi-nobori ở Nhật Bản
Từ cuối tháng 4 trở đi, khắp nơi ở Nhật đều treo Cờ cá chép để hưởng ứng ngày trẻ em Kodomo No Hi hay còn gọi là tết Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 dương lịch. Cờ cá chép thông thường trên cùng là 1 dải cờ tua dua nhiều màu sắc và bên dưới là 3 cá chép.
Cờ tua dua Fuki-nagashi thường có 5 màu: xanh, đỏ, vàng, trắng, đen tượng trưng cho Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, Thổ trong thuyết Ngũ hành âm dương của Trung Quốc. Ngoài ra còn tượng trưng cho Ngũ Thường là Lễ, Nhân, Nghĩa, Trí, Tín hay như Ngũ phương, Ngũ quan
Còn cờ cá chép thường có 3 màu là Đen, Đỏ và Xanh. Màu đen mang lại cảm giác an toàn, vững chắc như Trụ cột gia đình Daikoku-bashira (Đại Hắc Trụ), tức là tượng trưng cho Bố. Màu đỏ đem lại cảm giác ấm áp, như người mẹ chăm con, bao bọc gia đình, tức là tượng trung cho Mẹ. Còn màu xanh như trồi non mỗi ngày khôn lớn, tượng trưng cho Con cái. Ba con cá chép như biểu tượng của một gia đình ấm áp, hòa thuận.
Thêm nữa, vào những ngày này, mọi nơi đều bán bánh Kashiwa-mochi , mà tại sao lại cuốn lá của cây Kashiwa lên bánh mochi nhân đậu đỏ mà không phải lá khác. Bởi vì lá của cây Kashiwa rất đặc biệt, chỉ khi lá xanh đâm trồi thì lá già mới chịu rụng, người Nhật liên tưởng rằng chưa có con cái thì bố mẹ chưa thể chết được, với mong muốn Tử tôn hưng thịnh, con cái đầy nhà. Món bánh không chỉ đẹp mắt, ngon miệng mà còn rất ý nghĩa!!
Treo cờ cá chép còn giúp người Nhật thực hiện mong muốn các bé trai trưởng thành khỏe mạnh và sự nghiệp tương lai sẽ thành danh như cá chép hóa rồng
__ 
Yêu Nhật Bản - Con người Nhật Bản

Thứ Ba, 27 tháng 1, 2015


Người đàn ông này đã làm thay đổi bộ mặt thị trường trò chơi điện tử thế giới. Các sản phẩm của ông được Bill Gates quan tâm và nhiều lần ngỏ ý muốn mua lại. Ông không phải là người có tham vọng về quyền lực khi đã dám từ chối vị trí cao nhất vì sự phát triển chung của tập đoàn.
Người đàn ông mà chúng tôi muốn nói đến ở đây chính là Yamauchi Hiroshi, nguyên chủ tịch tập đoàn trò chơi điện tử Nintendo, .Là chủ công ty sản xuất đồ chơi lớn nhất , Yamauchi là một trong các doanh nhân thời hậu chiến ở Nhật đã gây dựng và phát triển cơ nghiệp từ đống tro tàn. Khởi đầu với công việc kinh doanh các bộ bài, ngày nay, sản phẩm trò chơi điện tử của Nintendo đã lên đến hàng chục loại khác nhau. Số tiền thu được từ các bộ bài, mặt hàng đồ chơi sơ khởi, hiện chỉ chiếm 1% tổng số lợi nhuận của Nintendo.
Thời trẻ, Yamauchi dự đoán sẽ rất khó để đạt mức doanh thu 1 tỷ USD/năm. Nhưng ngày nay, con số đó đã gấp 5 lần. Từ căn nhà ba tầng khiêm tốn làm tổng hành dinh ở Koyto, Nintedo tung ra nhiều sản phẩm độc đáo, thống lĩnh 90% thị trường đồ chơi tại Mỹ và 70% tại Nhật. Chủ tịch Yamauchi đã gia nhập hàng ngũ các tỷ phú thế giới. Năm 2005, Yamauchi được xếp hạng thứ 366 trong danh sách những người giàu nhất hành tinh với tổng tài sản ước tính khoảng 1,8 tỷ USD theo bình chọn của Tạp chí Fobes. Yaumauchi cho biết ông sẽ về hưu ở khi bước sang tuổi 80.
Hiroshi Yamauchi là vị chủ tịch thứ ba của Nintendo. Trong lịch sử của tập đoàn này kể từ năm 1949 đến thời điểm ông từ chức vào năm 2002, Yamauchi là vị chủ tịch thành công nhất khi biến Nintendo từ một công ty sản xuất bộ bài nhỏ tại Nhật thành một tập đoàn sản xuất và kinh doanh trò chơi điện tử với doanh thu hàng tỷ USD như ngày nay.
Người làm thay đổi bộ mặt trò chơi điện tử thế giới.
Hiroshi Yamauchi. Nguồn ảnh Wikipedia.
Bước khởi nghiệp đầy sóng gió
Hiroshi Yamauchi sinh ngày 07 tháng 11 năm 1927. Năm 1933, cha ông đã bỏ gia đình ra nước ngoài sinh sống, còn Hiroshi được để lại cho ông bà nội nuôi dạy.
Năm 1940, ở tuổi 12, Yamauchi đã bắt đầu làm việc trong một nhà máy của quân đội. Sau đó ông định nhập ngũ nhưng không được vì còn quá trẻ để ra trận. Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945, Hiroshi theo học luật tại Đại học Waseda. Năm 21 tuổi, Yamauchi phải bỏ học quay về quê nhà ở Kyoto để tiếp nhận, quản lý và điều hành công ty Nintendo sau khi ông nội của ông, chủ tịch Nintendo lúc đó, qua đời.
Ban đầu, Yamauchi gặp phải rất nhiều khó khăn. “Có lúc tôi cảm thấy tuyệt vọng trước sự lớn mạnh của các đối thủ cạnh tranh”- ông nói. Nintendo đã sa sút và tuột dốc trầm trọng trong lúc Yamauchi nỗ lực đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh. Ông từng làm thử mặt hàng cơm gạo sấy ăn liền, rồi máy đánh dã cầu và cả súng thể thao bằng tia laser nhưng đều thất bại. Cơn khủng hoảng nặng nề nhất của công ty kéo dài suốt đầu thập niên 70 và ít nhất hai lần, người ta tưởng Nitendo không còn gượng dậy được. Yamauchi từng phải cầu nguyện cho Nitendo đừng bị phá sản.
Nintendo chỉ bắt đầu biết đến thành công sau khi Yamauchi phát hiện tài năng sáng tạo của Yokoi Gumpei, một kỹ sư bảo trì dây chuyền ráp nối các bộ bài. Yokoi đã giúp ông sáng tạo ra Ultra Hand, một loại cánh tay đồ chơi tự động. Hơn 2 triệu bộ Ultra Hand đã được bán hết sạch trong đợt đầu tiên trong mùa Giáng sinh. Yokoi còn giúp Yamauchi làm ra GameBoy, sản phẩm đồ chơi nổi tiếng nhất của Nintendo. Trong thập niên 80, Nintendo thổi một cơn lốc vào thị trường trò chơi điện tử trên toàn thế giới khi cho ra đời hàng loạt các trò chơi hấp dẫn, từ Atari, Games and Watch, Donkey Kong cho tới Super Mario Brothers.
Cũng vào những năm 80 đó, Yamauchi mở rộng Nintendo sang Mỹ. Ông chỉ định con rể của mình là Minoru Arakawa đảm nhận vị trí quản lý các hoạt động của Nintendo tại đây. Yamauchi từng phải đối mặt với muôn vàn thách thức khi mới “chân ướt, chân ráo” đến thị trường này, nơi đã có các “đại gia” như Radarscope, Space Fever, và Sheriff. Yamauchi quyết định tung ra những sản phẩm trò chơi mới mà người Mỹ chưa từng được chứng kiến trước đó, và “con át chủ bài” sẽ là bộ đồ chơi gồm những chú vật nuôi trong nhà rất ngộ nghĩnh, đáng yêu Shigeru Miyamoto. Cú đánh lớn của Yamauchi vào thị trường Mỹ đã dọn đường cho công cuộc chinh phục thị trường này, cũng là bước mở đầu cho những phát triển tiếp theo của Nintendo tại Mỹ.
Những dấu ấn tạo nên tên tuổi
“Nintendo và Yamauchi luôn sống chết với sản phẩm”- đó là nhận định của các chuyên gia trên thị trường trò chơi điện tử. Và họ hoàn toàn có lý. Không như các đối thủ cạnh tranh, sản phẩm của Nintendo luôn được bổ sung thêm nhiều chức năng mới, chẳng hạn như chức năng máy tính cá nhân. Nintendo hy vọng trong tương lai sẽ thống lĩnh thị trường trò chơi điện tử thế hệ mới như đã từng đứng đầu ngành công nghiệp trò chơi điện tử thế giới từ hàng chục năm qua. Điểm mạnh của Yamauchi là hiểu tâm lý và biết chính xác những sở thích của khách hàng. Các chuyên gia tiếp thị của Nintendo so sánh Yamauchi như một Walt Disney trong lĩnh vực kỹ thuật số. Theo Yamauchi, trong khi các đối thủ lớn hơn như Sony và Microsoft vẫn còn các thị trường khác để phát triển, Nintendo lại chỉ tập trung vào khai thác mảng thị trường trò chơi điện tử từ gần 30 năm qua, nên việc phải sống chết với sản phẩm là điều tất nhiên. Một điểm mạnh đáng gờm của Nintendo là khả năng sáng tạo không ngừng. Vào những năm 80, Nintendo tung ra thị trường loại máy trò chơi điện tử đầu tiên mang tên Famicom. Nintendo đã tiêu thụ được hàng chục triệu bộ và chiếm tới 95% thị trường lúc đó. Năm 1990, hãng lại cho ra đời sản phẩm mang tính cách mạng có tên Super Nintendo với lượng bán ra là 55 triệu bộ. Sản phẩm này được người tiêu dùng ưa chuộng đến nỗi đã bị các đối thủ cạnh tranh làm giả. Tiếp đến là Game Boy, trò chơi điện tử di động đầu tiên, với tổng số bán ra là 120 triệu chiếc. Vào tháng 6 năm 2000, Nintendo lại tạo ra cơn sốt với sản phẩm Game Boy Advance. Chỉ trong vòng 1 tuần, sản phẩm đã bán được 500.000 chiếc ở châu Âu.
GameCube là một trong những sản phẩm thành công nhất của Nintendo và nó đã khiến ông chủ của vương quốc Microsoft thèm muốn. Bill Gates liên tục tỏ ý muốn mua lại bộ phận sản xuất đồ chơi GameCube, nhưng Hiroshi Yamauchi trước sau vẫn một mực từ chối. Phát biểu trong một cuộc họp báo ở Đức cách đây không lâu, Gates tiết lộ, ông vẫn giữ nguyên mối quan tâm đối với công ty sản xuất thiết bị trò chơi điện tử nổi tiếng này. “Nếu Yamauchi gọi điện ngỏ ý bàn về việc mua bán cổ phần, chắc chắn tôi sẽ sẵn sàng nhấc máy trả lời ngay”,- nhà tỷ phú Mỹ cho biết.
Nintendo đã bán được 800.000 bộ GameCube trên toàn thế giới ngay trong quý đầu tiên ra mắt. Nintendo,cũng đã bán được 3,24 triệu máy trò chơi điện tử cầm tay Game Boy Advance (GBA)trong năm 2004. Trong tháng 5, Nintendo đã đặt mục tiêu bán 6 triệu bộ GameCube và 20 triệu máy GBA trên toàn thế giới trong năm tài chính 2005.
Những năm gần đây, Nintendo mặc sức “làm mưa làm gió” trên thị trường máy trò chơi điện tử cầm tay với sản phẩm Game Boy, nhưng vị trí đó đang bị lung lay trước sản phẩm Play Station Portable (PSP) của đối thủ đáng gờm Sony – hãng diện tử nổi tiếng tại xứ sở hoa anh đào đang muốn lặp lại kỳ tích của mình với sản phẩm Play Station khi bước vào cuộc chơi với tư thế của một kẻ học nghề nhưng đã vươn lên giành ngôi vị số một.
Cuộc chiến trên bộ điều khiển (game console) diễn ra vào nửa cuối thập niên 90 – thời kỳ Nintendo và Sega chia nhau thống lĩnh thị trường trò chơi điện tử với những vị trí tưởng chừng không thể suy suyển. Thế rồi, giống như một pha hành động chớp nhoáng trong trò chơi điện tử, Sony tấn công vào “gót chân Achilles” của cả hai đối thủ và rồi cuối cuộc chiến chỉ còn Nintendo trụ lại được. Sega biến mất khỏi thị trường phần cứng vào năm 2001 và đầu năm nay đã phải sáp nhập vào Sammy, một hãng sản xuất máy pinball của Nhật.
Có được thành công đó là nhờ các sản phẩm của Nintendo luôn duy trì tính độc đáo và tiện dụng. Yamauchi chào hàng GameCube như một sản phẩm máy chơi điện tử độc nhất vô nhị, có nhiều khác biệt so với Xbox và Play Station 2 của Sony và Microsoft. Yamauchi cũng tuyên bố GameCube sẽ có giá rẻ nhất trong dòng sản phẩm cùng loại đang có mặt trên thị trường, ông tin rằng mọi người “sẽ chơi, nhưng không phải chỉ với một chiếc máy điện tử, mà họ chơi với các phần mềm, họ buộc phải mua các phần mềm trò chơi điện tử. Vì vậy, giá của máy phải càng rẻ càng tốt”. Mong muốn đã trở thành hiện thực, các máy GameCube rẻ hơn nhiều lần so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, Yamauchi cũng yêu cầu sản phẩm GameCube phải thật đơn giản để tạo sự thoải mái cho người chơi.
Dự định của Yamauchi lúc còn tại chức và hiện nay vẫn được Nintendo tiếp tục theo đuổi, là sẽ tung ra thiết bị trò chơi điện tử cầm tay DS hai màn hình có thêm tính năng tải phim. Yamauchi tiết lộ kế hoạch kết hợp khả năng tải tín hiệu của DS với việc phát hành phim, nhưng khởi đầu công ty sẽ kinh doanh phim hoạt hình. “Chúng tôi dự kiến thử kết hợp DS với một số rạp chiếu phim. Bằng cách sử dụng chức năng vô tuyến của hệ thống, người sử dụng chỉ cần mang thiết bị DS và phần mềm  dành cho Game Boy Advance đến rạp hát đã được chỉ định sẽ tải được dữ liệu liên quan đến nhân vật  mới trong khi bạn xem phim này”- Yamauchi nói.
Rút lui vì lợi ích chung
Vào ngày 31 tháng 5 năm 2002, Yamauchi chính thức rút lui khỏi vị trí chủ tịch Nintendo và chuyển giao quyền điều hành cho Satoru Iwata, giám đốc kế hoạch kinh doanh của tập đoàn. Hiroshi Yamauchi hoàn toàn rút khỏi hội đồng quản trị vào năm 2005 vì lý do tuổi tác và, theo ông, việc này sẽ có lợi hơn cho Nintendo. Yamauchi cũng từ chối khoản trợ cấp lương hưu trị giá gần 14 triệu USD. Ông cho rằng Nintendo nên dùng khoản tiền này để tái đầu tư. “Tôi đã có một thời gian quản lý và điều hành thành công”,- Yamauchi nói,- “Đã đến lúc Nintendo cần một thế hệ lãnh đạo mới, trẻ hơn và có năng lực hơn. Điều này sẽ tạo ra một phong cách văn hoá mới cho công ty”.
Có thể nói, thành công của Nintendo ngày nay không chỉ đến từ sự sáng tạo mà còn từ những quyết định khôn ngoan của Yamauchi trong việc kiểm soát hiệu quả thị trường phần mềm trò chơi điện tử. Ông được biết đến như một nhà lãnh đạo có đầu óc thực tế và không ngại đánh thẳng vào những điểm khó khăn nhất. Mặc dù Yamauchi tự thừa nhận mình hầu như không biết gì về kỹ thuật phần mềm, nhưng khả năng phán đoán trong lĩnh vực tiếp thị của ông, nhạy bén đến độ gần như bản năng, quả là không chê vào đâu được. Trong lúc rất nhiều người trong công ty phản đối cái tên Donkey Kong dành cho một nhân vật trò chơi điện tử mới, thì Yamauchi vẫn giữ nguyên lập trường. Và thời gian đã chứng minh, cái tên này sau đó được xem là chìa khoá dẫn tới thành công lớn cho Nintendo trên thị trường trò chơi điện tử, thu hút được hàng triệu khách hàng khắp nơi.
Yamauchi đã thực sự lao vào cuộc chơi để đưa Nintendo từ một công ty nhỏ trở thành tập đoàn nổi tiếng trên toàn thế giới. Ở tuổi 70, thú vui của ông là chơi Go, một trò chơi truyền thống của Nhật Bản. Tuy vậy, trong các chiến lược kinh doanh của Yamauchi không có bóng dáng của trò chơi dân gian. Hiện nay, cho dù chỉ là giám đốc của một nhà máy sản xuất bộ bài nhỏ tại Nhật thay vì lãnh đạo tập đoàn sản xuất trò chơi điện tử thành công nhất trên thế giới, Yamauchi vẫn luôn được đánh giá là một trong những người có quyền lực nhất trong thị trường trò chơi điện tử toàn cầu.
__ 
Yêu Nhật Bản - Con người Nhật Bản

Thứ Bảy, 24 tháng 1, 2015


Văn hóa hút thuốc của người Nhật Bản
Hút thuốc lá vẫn còn là một trò tiêu khiển phổ biến với nhiều  mặc dù trong những năm gần đây, thói quen này đã giảm đáng kể. Trong thực tế, thuốc lá có thể được mua rất dễ dàng với giá thành khá rẻ, có một nguồn cung cấp phong phú của máy bán hàng tự động, ước tính có hơn 60,000 máy bán hàng thuốc lá tự động trên các đường phố . Những người dưới 20 tuổi đều bị cấm hút thuốc ở đất nước này. 

Thuốc lá là một phần quan trọng trong  Nhật Bản, thậm chí còn có một lễ hội thuốc lá được tổ chức tại Hadano-shi, Kanagawa để tìm ra Hoa hậu thuốc lá. Ngoài ra còn có một bảo tàng ở vùng ngoại ô  là Shibuya được biết đến như là Bảo tàng thuốc lá và muối.
Hút thuốc ở nơi công cộng không được phổ biến. Gần đây, nhiều nơi công cộng như nhà ga, sân bay, công viên và những nơi văn hóa đã cấm hút thuốc trong khu vực chính nhưng họ vẫn dành những khu vực riêng cho người hút thuốc lá. Nhiều quán cà phê, nhà hàng và quán bar cũng có một khu vực hút thuốc lá một bên.
Văn hóa hút thuốc của người Nhật Bản
Ném mẩu thuốc lá ra đường phố cũng là vấn đề đáng quan tâm, nếu vi phạm thì hình thức xử phạt là 20.000 – 100.000 Yên/người xả rác thuốc lá, và một quy định về việc cấm hút thuốc có thể được đưa ra. Những người đi tuần tra luôn có mặt trên các đường phố để nhắc nhở mọi người về các quy định mới.
Phòng hút thuốc, điểm hút thuốc xuất hiện ở bất kỳ trên một con đường, nhà hàng, khách sạn nào. Ngoại trừ những nơi đó ra thì mặc nhiên những nơi khác là không được hút, mọi người tự giác mà chấp hành. Việc hút thuốc không đúng nơi quy định sẽ bị phạt rất nặng và chắc chắn, sẽ có rất nhiều người nhắc nhở trước giúp bạn khi bạn không hiểu luật. Hình phạt đủ sức răn đe và ngay cả người hút dù rất muốn thỏa mãn cơn “nghiện” nhưng vẫn phải học cách kiềm chế vì không muốn ai động đến mình. Họ có thể là những người “nghiện” thuốc nặng nhưng họ không bao giờ để rơi tàn thuốc xuống nền. Không có gạt tàn nhưng trong túi họ lúc nào cũng có những mảnh giấy và túi nilon để đựng. 
Nếu bạn là người có thói quen hút thuốc, bạn có thể ngạc nhiên bởi chi phí của một gói thuốc lá. Có rất nhiều loại thuốc cạnh tranh trên thị trường nhờ vào sự phong phú của các máy bán hàng tự động và các cửa hàng thuốc nhỏ. Ngoài ra thuốc lá không phải chịu các loại thuế nặng giống như ở các nước khác.
__ 
Yêu Nhật Bản - Con người Nhật Bản

Thứ Hai, 19 tháng 1, 2015


Có một sản nghiệp đồ sộ từ gia đình, lẽ ra Akio Morita không cần phải lăn lộn từ tay trắng đến thế. Trên đống hoang tàn đổ nát của nước Nhật sau Thế chiến II, chàng thanh niên đam mê vật lý quyết tâm biến những quy luật, định lý khô khốc thành… tiền. Nghĩ khác và làm khác, Morita đã khiến cho thế giới phải ghi nhận sự trở lại của nước Nhật trong một vị thế mới.
Cha đẻ Sony – Thần tượng của nước Nhật
Akio Morita
Từ chối nối sản nghiệp gia đình
Morita sinh ngày 26/1/1921 ở Nhật trong một gia đình có truyền thống nấu rượu sake qua 15 thế hệ. Vào thời gian đó, hoạt động của họ cũng đã mở rộng với việc sản xuất đậu nành lên men và tương. Đó là một gia đình giàu có và có quan hệ với phương Tây, trong nhà thường bật máy quay đĩa và nhạc Tây.
Từ khi còn nhỏ, mọi người cho rằng Morita sẽ tiếp tục truyền thống sản xuất rượu sake của gia đình. Ông đã bắt đầu được chuẩn bị để đảm nhận công việc của gia đình khi mới 10 tuổi. Khi đó, bố ông cho ông tham dự tất cả các cuộc họp của công ty. Chỉ trong vài năm, Morita đã trở thành một chuyên gia ở mọi lĩnh vực từ kiểm soát tới sản xuất rượu, tới đánh giá chất lượng rượu do các nhà máy sản xuất, tới việc quản lý nhân viên.
Nhưng, trong lúc học hỏi từ công việc bên trong và bên ngoài gia đình, Morita cũng phát hiện ra niềm yêu thích của mình không chỉ có rượu, mà là cả toán học và vật lý
Khi học đến lớp 10, Morita nhận ra rằng ông không có ý định gìn giữ truyền thống gia đình, cho dù điều đó sẽ làm cha ông rất thất vọng.
Sau khi tốt nghiệp trung học, Morita đăng ký vào Đại học Hoàng gia Osaka và tốt nghiệp với tấm bằng về vật lý vào năm 1944. Trong thời gian đó, ông đã thực sự yêu thích kỹ thuật và các thử thách của việc ghi âm thanh chất lượng cao.
Được đào tạo là một nhà vật lý học, Morita biết lĩnh vực của ông có thể được trọng dụng. Do đó, Morita tham gia Hải quân Nhật ngay sau khi tốt nghiệp. Lúc này đang là giai đoạn giữa của Thế chiến II. Tại đây, ông gặp Masaru Ibuka, một kỹ sư điện tử ở Uỷ ban Nghiên cứu thời chiến của Hải quân. Hai người cùng chia sẻ sở thích chung và nhanh chóng trở thành bạn thân.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Morita làm việc ở Viện Kỹ thuật Tokyo. Trong khi đó, Ibuka làm ở Viện nghiên cứu viễn thông. Morita và Ibuka đã cùng hợp sức với nhau vào thời điểm nhiều công ty ở Nhật Bản sa sút – hậu quả tất yếu của cuộc chiến tranh thế giới lần 2.
Biến kiến thức vật lý thành tiền
Thế chiến II kết thúc, nhưng với nhiều quốc gia, hậu quả của cuộc chiến khiến những năm tháng sau đó thậm chí còn khó khăn hơn rất nhiều. Nhật Bản cũng không phải là ngoại lệ. Hầu hết các thành phố lớn ở Nhật cùng với mạng lưới các nhà máy và giao thông bị tàn phá nặng nề. Tình trạng thiếu thực phẩm rất nghiêm trọng, chưa kể đến gần 3 triệu người có khả năng lao động đã bị thiệt mạng trong chiến tranh. Nhật Bản đứng trên đống đổ nát.
Nhưng, Morita đã rất tự tin rằng đất nước ông không chỉ hồi phục, mà có thể trở thành nước dẫn đầu trong thị trường toàn cầu, và ông muốn là một trong những người biến điều này thành hiện thực. Ông bàn bạc với bạn mình – Ibuka về cách họ có thể kết hợp kiến thức vật lý và chế tạo lại với nhau.
Năm 1946, Morita và Ibuka tìm ra một giải pháp: họ thành lập Công ty Kỹ thuật viễn thông Tokyo có trụ sở đặt tại Nagoya.
Công ty đã được thành lập với số vốn ban đầu chỉ có 350 đô, trong một cửa hàng cũ bị bom tàn phá và đã bị cấm sau chiến tranh. Thậm chí ngay cả khi đã thuê 20 nhân viên, Morita và Ibuka vẫn không chắc chắn rằng họ sẽ tập trung vào sản phẩm nào, nhưng điều họ biết chắc chắn là họ muốn tạo ra những sản phẩm điện tử tiên tiến và có chất lượng cao để có thể đưa Nhật Bản trở lại bản đồ thị trường thế giới. Cái nhãn “sản xuất tại Nhật Bản” sẽ không chỉ dán trên các sản phẩm rẻ và chất lượng thấp nữa.
Lúc đó, Morita chỉ mới 25 tuổi, nhưng tuổi tác chẳng bao giờ là rào cản đối với việc mở rộng công ty. Năm 1949, Morita và Ibuka phát triển một loại băng ghi âm từ tính, mà dẫn tới sản phẩm đầu tiên của họ năm sau đó – máy ghi âm bằng băng. Đó là loại máy ghi âm đầu tiên ở Nhật bản. Làm ăn rất thuận lợi ở Nhật, nhưng Morita còn muốn nhiều hơn thế.
Làm khác biệt và đừng bận tâm đến thành tích ở trường
Ngang bướng, không thích tuân theo các quy tắc thông thường, cũng không coi trọng các thành tích ở trường, thế nhưng, Akio Morita – cựu chủ tịch của tập đoàn Sony luôn biết cách truyền cảm hứng sáng tạo cho nhân viên và đưa cho họ những cái đích để hướng đến. Theo ông, đó là công việc quan trọng nhất của người quản lý.
Quản lý nghĩa là truyền cảm hứng sáng tạo
“Ở vị trí quản lý, biết cách giải phóng sự sáng tạo bên trong của con người sẽ rất quan trọng” – Morita nói. “Tôi thừa nhận rằng ai cũng có khả năng sáng tạo, nhưng rất ít người biết cách sử dụng nó”. Morita đã tạo ra một trong những tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới, nhưng không phải một mình ông làm được điều đó. Thực tế, trong sự nghiệp hơn 50 năm của mình, Morita là một trong những doanh nhân thẳng thắn đưa ra các nguyên tắc quản lý của mình, các nguyên tắc phần lớn dựa trên truyền thống của Nhật Bản.
“Nhiệm vụ quan trọng nhất đối với một nhà quản lý Nhật Bản là phát triển các mối quan hệ vững mạnh với nhân viên, để tạo ra cảm giác tổ chức cũng giống như gia đình, cảm giác mà nhân viên và các nhà quản lý cùng chia sẻ chung một số phận” – Morita nói. “Chúng tôi sẽ cố gắng tạo ra những điều kiện mà các cá nhân có thể tập hợp với nhau trong tinh thần của nhóm, một rèn luyện khát khao về khả năng kỹ thuật của họ”.
Morita thường xuyên đến thăm các nhà máy và cố gắng để gặp từng nhân viên. Ông muốn chắc chắn rằng nhân viên của ông cảm thấy họ là những người bạn của công ty, chứ không phải là những công cụ được sử dụng. Dù vậy, trong khi đề cao cách làm việc nhóm và mối quan hệ giữa quản lý và nhân viên, Morita cũng tin vào tầm quan trọng của khả năng cá nhân để phát huy sự tự do sáng tạo.
Với Morita, động cơ không đến từ tiền bạc, mà thay vì thế, chúng đến từ chất lượng công việc mà nhân viên của ông đang làm. “Tôi tin rằng mọi người làm việc vì sự thỏa mãn” – ông chia sẻ – “Tôi tin rằng, nếu nghĩ rằng tiền bạc là cách duy nhất để bù đắp công việc mà một người nào đó làm thì sẽ là một sai lầm lớn, mà nhân viên muốn họ cảm thấy vui vẻ với công việc của mình và tự hào về nó”.
Thực tế, Morita bất đồng với chính phủ Nhật khi họ cho rằng trang bị các phòng thí nghiệm lớn với các thiết bị hiện đại nhất là chìa khóa để kích thích sáng tạo. Cho dù muốn nhân viên của mình có được những phương tiện tốt nhất, ông biết rằng, chỉ có phương tiện thôi thì chưa đủ dẫn tới cách làm việc sáng tạo và hiệu quả.
Morita cũng tin vào việc lên kế hoạch và đầu tư lâu dài, ngược với việc lấp đầy bằng lợi nhuận theo hàng quý mà ông nghĩ rằng các công ty của Mỹ vẫn làm. Sony luôn tập trung vào việc thuê những người có thể kết hợp làm việc với nhau. Morita không bao giờ quan tâm đến chuyện nhân viên của ông có học từ các trường đại học tốt nhất hay không hay việc họ có đạt điểm cao hay không. “Tôi hình thành một quy tắc rằng, khi chúng ta thuê một nhân viên, thành tích ở trường chỉ là vấn đề của quá khứ, thành tích ấy không còn được sử dụng để đánh giá công việc hoặc quyết định về sự thăng tiến nữa”. Năm 1966, ông còn viết một cuốn sách về vấn đề này với nhan đề “Đừng bao giờ bận tâm vì các thành tích ở trường”.
Morita tin rằng phong cách quản lý của ông luôn luôn pha trộn giữa phong cách phương Tây và truyền thống của Nhật Bản. Ông kết hợp cả hai để tạo nên một phong cách riêng, và phong cách đó đã đưa ông đến đỉnh cao.
Thách thức các quy định và phá vỡ các khuôn mẫu
Năm 1989, cùng với chính khách người Nhật Ishihara Shintaro, Morita viết một cuốn sách về sự tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, có tên gọi: “The Japan That Can Say No”. Trong đó, Morita phê bình doanh nghiệp Mỹ vì những điều ông xem là “làm lõm sâu” nền kinh tế của đất nước. Đặc biệt, ông nghĩ sự tập trung của họ vào sự liên kết và những gì giành được, và tái định vị lại tổ chức nước ngoài, đã lấy đi sự sáng tạo của sức mạnh sản xuất thực sự.
Morita bàn về thực tế rằng, thu nhập cao của hầu hết các CEO người Mỹ thực ra làm tổn hại đến công ty của họ, ngược với cộng đồng các công ty của Nhật ngày càng bình đẳng và kết nối chặt chẽ. Ông cũng lí giải cho sự quyết đoán của Nhật bản trên thương trường. Ông đã khen ngợi sự cởi mở của thị trường Mỹ, đồng thời phê bình nước ông vì tư duy đóng. Tuy nhiên, trong sự phê bình của ông, thì những lời khen ngợi hiếm khi được dư luận Mỹ lắng nghe.
Morita nói: “Theo quan điểm của tôi, hệ thống quản lý của người Mỹ dựa quá nhiều vào những người bên ngoài giúp họ ra quyết định kinh doanh, và điều này dẫn tới việc người Mỹ cảm thấy thiếu an toàn khi phải ra quyết định trong công việc, khi so sánh với hầu hết các nhà điều hành của Nhật Bản”.
Đó là những tuyên bố có thể gây ra sự kích động trên thế giới ngay khi cuốn sách được dịch từ tiếng Nhật ra tiếng Anh. Morita bị gọi là một doanh nhân ngạo mạn và thậm chí một số người còn từ chối làm ăn với ông. Nhưng với Morita, thẳng thắn là một phần tự nhiên của ông. Morita đã bất chấp các quy định từ khi ông sinh ra.
Là đứa con lớn nhất trong gia đình, Morita luôn được mong đợi sẽ đi theo truyền thống của Nhật Bản, kế thừa truyền thống nấu rượu sake 15 thế hệ của gia đình. Nhưng Morita chưa bao giờ có ý định làm vậy. Thay vì thế, ông lựa chọn đi theo trái tim mình, và mạo hiểm khởi nghiệp trong một môi trường kinh doanh đầy mạo hiểm hơn – Nhật Bản sau thế chiến II.
Khi Morita làm bố, theo truyền thống của Nhật, ông nên gửi ba đứa con của mình tới các trường học nghiêm khắc của Nhật. Tuy nhiên, Morita từ chối. Ông muốn những đứa con của mình được giáo dục trong các trường học mà có thể làm cho chúng trở thành các công dân quốc tế và các nhà lãnh đạo toàn cầu mà ông biết rằng chúng có khả năng trở thành.
Cũng với tính cách không chịu theo các quy tắc khuôn mẫu đó mà Morita đã giành được mọi thứ trong đời mình, bao gồm cả việc kinh doanh. Khi đối thủ cạnh tranh bảo ông rằng khách hàng chỉ muốn các sản phẩm với kích cỡ và hình dạng tiêu chuẩn, Morita làm các sản phẩm nhỏ hơn và có thể mang theo được. Và, khi các nhà điều hành Nhật Bản được mong đợi là sẽ im lặng, không tranh cãi và ẩn danh, thì Morita dám nói lên những quan điểm của mình.
Sự sẵn sàng thách thức với các quy tắc đã dẫn Sony trở thành công ty đầu tiên của Nhật Bản có tên niêm yết trên thị trường chứng khoán New York. Morita đã lót đường cho các công ty Nhật Bản tăng nguồn vốn nước ngoài, thay vì cách vay tiền từ các ngân hàng trong nước như truyền thống trước đây.
Ngày nay, các ý tưởng trái với thói thường của Morita đã thay đổi khá nhiều đến cách kinh doanh của thế giới.
Tự tạo ra thị trường
Năm 1950, Công ty Kỹ thuật viễn thông Tokyo gặp phải một khó khăn. Morita và Ibuka đã chế tạo ra chiếc máy ghi âm bằng băng đầu tiên, nó hoạt động được, họ tin rằng nó có tiềm năng lớn, nhưng lại không ai có nhu cầu mua nó.
Chỉ rất ít người Nhật thích thú với thiết bị nhỏ nhưng dường như không có khả năng sử dụng thực tế này, cho đến khi một nhóm giáo viên phát hiện ra sản phẩm này và nhận ra rằng nó có thể được sử dụng trong lớp học. Không để lỡ cơ hội, Morita và Ibuka bắt đầu sản xuất các chương trình đào tạo bằng âm thanh bằng băng để đáp ứng nhu cầu của các giáo viên. Họ cũng bắt đầu đi đến các trường học ở Nhật Bản, giới thiệu sản phẩm mới của họ với các giáo viên và chứng tỏ chúng có lợi cho các trường học như thế nào.
Thứ từng bị xem là một sản phẩm tiên tiến nhưng không có thị trường nhanh chóng trở thành một sản phẩm tiên tiến có nhu cầu cao ở khắp Nhật Bản. Thiết bị này được bán nhanh đến nỗi các công ty hiếm khi đáp ứng đủ nhu cầu. Morita đã không chỉ cải thiện được lợi nhuận của mình, mà còn nhanh chóng học được một bài học đáng giá. Không cần phải tạo ra các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị trường, ông có thể tự tạo ra thị trường. Và, đó là một bài học mà ông luôn nhớ trong đầu trong suốt những năm tháng ở Sony.
Cho dù có trực giác rất tốt, Morita cũng không phải là một người hoàn hảo. Ông đã đứng sau rất nhiều sản phẩm không tạo ra được lợi nhuận. Ví dụ, Sony đã đưa ra băng có trọng lượng lớn, một sản phẩm với công nghệ tiến bộ hơn bất kỳ sản phẩm nào thời kỳ đó. Chất lượng hình ảnh của nó không có gì sánh kịp. Thế mà, khi một trong những đối thủ cạnh tranh của Sony tung VHS ra thị trường, sản phẩm của Morita đã “thất thế”. Khả năng ghi lâu hơn của VHS nhanh chóng trở nên thông dụng với khách hàng.
Là một doanh nhân ngang bướng, Morita từ chối hợp tác với bất kỳ kỹ thuật nào của VHS cũng như việc thay đổi sản phẩm của mình. Kết quả là, Sony đã thiệt hại nặng. Nhưng điều đó không ngăn Morita nghe theo trực giác. Ông biết rằng nơi sản phẩm của ông là sản phẩm tiên tiến nhất trên thị trường, thì ông có thể bán được nó.
Vì sự sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm đó, năm 1972, Morita được Viện Khoa học và nghệ thuật truyền hình quốc gia trao giải thưởng Emmy cho sản phẩm Trinitron. 4 năm sau, ông nhận được giải thưởng Emmy lần hai vì hệ thống ghi băng video U-Matic.
Morita biết rằng thị trường của ông là một thị trường cạnh tranh gay gắt, và cách duy nhất để đứng vững là tìm được chỗ đứng. Nơi không có thị trường, ông biết mình có thể tạo ra thị trường. Và đó chính xác là những điều mà Akio đã làm ở Sony.
__ 
Yêu Nhật Bản - Con người Nhật Bản

Thứ Bảy, 17 tháng 1, 2015


Không ai có thể phủ nhận thị trường âm nhạc Nhật Bản là một ông lớn trong nền âm nhạc thế giới.
Với tỉ lệ chia sẻ âm nhạc đứng thứ hai chỉ sau Mỹ, J-pop vẫn luôn là một tượng đài lớn, một nền âm nhạc mà chỉ cần đặt chân được vào đã là một vinh dự. Không những thế,  dù thị trường nhạc có lớn đến đâu, người Nhật vẫn coi chất lượng âm nhạc là yếu tố tiên quyết khi chọn mua sản phẩm. Điều này đương nhiên là tốt, nó giúp chất lượng âm nhạc J-pop luôn giữ vững phong độ ổn định, đồng thời càng kích thích các nghệ sĩ tạo ra nhiều sản phẩm âm nhạc sáng tạo và nghệ thuật hơn.
Tuy nhiên, điều gì cũng có mặt trái của nó. Để bù lại chất lượng âm nhạc tuyệt vời ấy, các nghệ sĩ đã phải đánh đổi một thứ rất quan trọng: chất giọng của mình.

Những căn bệnh về thanh quản

Có thể nói, đối với J-pop, tỉ lệ những nghệ sĩ mắc phải các bệnh về thanh quản, hay liên quan đến tai, mũi, họng, phổi không phải quá nhiều, nhưng cũng vừa đủ để chúng ta bất ngờ.
Đầu tiên phải kể đến trường hợp của nữ diva nhạc pop Hamasaki Ayumi.  Cô là một diva tài năng của nền âm nhạc Nhật Bản, với giọng hát trong trẻo trời phú và vũ đạo uyển chuyển, bốc lửa. Tuy vậy, với những ai mới tìm hiểu nhạc Nhật, có thể sẽ không biết rằng tai trái của Ayumi đã hoàn toàn mất đi thính giác và vô phương cứu chữa. Đây là kết quả của những tháng năm luyện tập miệt mài không ngừng nghỉ. Dù thế, Ayumi vẫn tiếp tục sự nghiệp ca hát của mình, cô luôn cố gắng hết sức để cống hiến cho khán giả những màn trình diễn ấn tượng và hoàn hảo nhất.
J-pop artist , cái giá phải trả cho sự thành công
Hamasaki Ayumi – nữ hoàng nhạc J-pop
Một nữ ca sĩ nổi tiếng khác, Mika Nakashima, cũng mắc một căn bệnh tương tự như Ayu. Chỉ cần so sánh hai bản live của Mika vào 2 năm 2005 và 2012 là có thể thấy rõ sự khác biệt. Giọng Mika năm 2005 trầm, tinh tế, nhiều nội lực bao nhiêu thì năm 2012, giọng cô yếu đi bấy nhiêu và không thể lên cao được. Chính căn bệnh về tai đã dẫn đến sự thay đổi này vì lúc hát, càng lên cao thì tai sẽ càng đau.Ca sĩ trẻ Ayaka từng công bố mình bị mắc bệnh Bướu cường giáp ( một loại bệnh về họng? :? ) vào năm 2009. Xét đến dòng nhạc sử dụng nhiều kĩ thuật mà cô đang theo đuổi, sự việc này có lẽ cũng không quá bất ngờ. Sau đó, cô quyết định tạm ngưng các hoạt động âm nhạc một thời gian để tập trung chữa bệnh, và quay trở lại ngoạn mục vào năm 2012 với album “ Hajimari no toki “ . May mắn là chất giọng của cô vẫn như xưa.

 Nguyên nhân
Vậy nguyên nhân dẫn đến những căn bệnh trên là do đâu. Theo ý kiến chủ quan của ad thì có khá nhiều nguyên do cho những vụ việc trên.
Thứ nhất, đó là yêu cầu khắt khe của thị trường âm nhạc Nhật Bản. Với một thị trường lớn như Nhật Bản, nếu một nghệ sĩ không thể giữ vững phong độ, đồng thời liên tục làm mới mình, bị đào thải là điều tất yếu. Điều này thúc ép các nghệ sĩ phải liên tục cho ra album, single mới, đồng nghĩa với làm việc không ngừng nghỉ.
 
Nguyên nhân thứ hai cũng khá quan trọng, đó là vấn đề live của ca sĩ. Chỉ DVD, single, các ấn phẩm điện tử thôi không đủ, việc đi tour hay tổ chức concert riêng cũng là chuyện thường xuyên. Đã mang danh nghệ sĩ, có nghĩa là hầu như phải đặt giọng hát lên hàng đầu. Chính vì vậy khi tổ chức concert, các nghệ sĩ Nhật luôn hát live 100%, điều này khẳng định đẳng cấp và cũng thể hiện sự tôn trọng khán giả, nhưng nếu làm việc không điều độ, rất có thể nó sẽ trở thành con dao hai lưỡi.
 
Cuối cùng chính là do bản thân các nghệ sĩ. Dù sao với hai nguyên nhân kể trên, các staff và manager của họ chắc chắn phải biết cách điều chỉnh lịch làm việc cũng như chế độ nghỉ ngơi, ăn uống cho phù hợp. Tuy nhiên, nếu bản thân nghệ sĩ quá đam mê công việc, dù là ai cũng không thể cản họ. Vì đam mê cháy bỏng với rock, Yoshiki ( X Japan ) đã chơi trống một cách hoang dại đến mức mà sau này, anh thường xuyên phải đeo một cái nẹp cố định cổ. Cô nàng Matsui Jurina ( SKE48 ) thì một dạo làm fan suýt phát hoảng vì sự sút cân nhanh chóng do ham mê tập luyện và không chịu ăn uống đúng cách, thậm chí có lần cô đã bị ngất và phải nhập viện. Giọng hát của Kaori Mochida ( Every Little Thing ) ngày càng xuống dốc do cô liên tục sử dụng cách hát gây tổn thương mạnh đến họng của mình.
 
J-pop artist , cái giá phải trả cho sự thành công
Dù cổ bị chấn thương, Yoshiki vẫn bùng cháy với âm nhạc
Tóm lại, đằng sau những sản phẩm âm nhạc đẹp đẽ, sâu lắng, làm lay động con tim của hàng triệu khán giả là những giọt mồ hôi và những tổn thương của người nghệ sĩ.  Đúng vậy, con đường dẫn đến thành công chẳng bao giờ trải đầy hoa hồng , và đối với các nghệ sĩ Nhật Bản, có thể chỉ toàn là gai nhọn, nhưng vì niềm đam mê và tình yêu âm nhạc, họ vẫn không bao giờ nản chí. Có lẽ đối với họ, được khán giả đón nhận và cảm thụ âm nhạc của mình bằng cả trái tim đã là một niềm hạnh phúc lớn lao, mà chúng ta có thể sẽ chẳng bao giờ hiểu được.
P/s: đây chỉ là một bài tản mạn được mình viết ra vào một lúc hứng chí, chẳng nhằm mục đích gì. Phần nguyên nhân hoàn toàn là đánh giá chủ quan của mình, độ chính xác thì tùy mọi người kiểm chứng. 

__ 
Yêu Nhật Bản - Con người Nhật Bản

Thứ Năm, 15 tháng 1, 2015


Tờ Japan Times vừa thực hiện một phóng sự về các ngôi trường đặc biệt này. Khi phóng viên đến nơi, các học sinh trong lớp đang bận rộn học toán, tiếng Anh và tiếng Triều Tiên. Tại một lớp học khác, học sinh xem phim tài liệu tiếng Nhật Bản về Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye.
Giống nhiều học sinh ở Nhật Bản, Kim Yang Sun vẫn đạp xe tới trường mỗi sáng. Tuy nhiên khi tới trường, cô bé sẽ mặc đồ Triều Tiên truyền thống và học hành dưới các ảnh chân dung 2 nhà lãnh đạo Triều Tiên là Kim Il Sung (Kim Nhật Thành) và Kim Jong Il.
Trường trung học Triều Tiên ở quận Kita, Tokyo, trông giống bất kỳ ngôi trường nào khác với một chiếc đồng hồ tròn, lớn, nằm cao trên các tòa nhà màu xám.
Nhưng ở bên trong, tất cả các thông báo đều viết bằng tiếng Triều Tiên. Các nữ sinh và nữ giáo viên phải mặc trang phục “chima jeogori” truyền thống, gồm váy dài và áo khoác ngắn.
Giáo trình của trường chủ yếu dựa trên giáo trình phổ thông của các trường trung học Nhật Bản, sẽ cho phép 40% học sinh của trường tiếp tục theo học đại học.
“Chúng tôi đã có thể học hành tại ngôi trường này là nhờ Tổ quốc” – Kim, một học sinh 18 tuổi đang theo học tại ngôi trường được chính quyền Triều Tiên cấp vốn một phần, cho biết  – “Họ đã giúp chúng tôi vượt qua những thời khắc khó khăn nhất sau giai đoạn chiếm đóng thuộc địa. Tôi sống ở Nhật Bản, nhưng vẫn cảm thấy kết nối với Tổ quốc.”
Các ngôi trường giống như trường Kim đang học phục vụ một cộng đồng người Triều Tiên đông tới nửa triệu người. Tuy nhiên chúng hiện đang chật vật sinh tồn, khi cả Triều Tiên và Nhật Bản đều cắt giảm ngân sách.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã không cho các bậc phụ huynh Triều Tiên được hưởng tiền trợ cấp, trong bối cảnh mối quan hệ giữa Nhật Bản và Triều Tiên đã bị xấu đi vì các cuộc bắt cóc công dân Nhật diễn ra cách nay 3 thập kỷ.
Hiệu trưởng Shin Gil Ung nói rằng trường vẫn dạy các học sinh coi cả Triều Tiên và Hàn Quốc là đất mẹ. Các học sinh cũng được học về “tình hình thực tế” ở Triều Tiên và nền kinh tế ở đây.
“Các học sinh sẽ tự quyết định việc có ủng hộ hệ thống chính trị đó (Triều Tiên) hay không” – ông Shin nói – “Chúng tôi tránh không nói với các em rằng mọi điều Triều Tiên làm đều đúng.”
Các ngôi trường như thế này đã bị chỉ trích. Hideshi Takesada, một giáo sư tại Đại học Takushoku ở Tokyo, người chuyên nghiên cứu về Triều Tiên, nói rằng nội dung giảng dạy trong các trường này “rất nặng tư tưởng” và rằng “tất cả nam, nữ học sinh đều được yêu cầu vâng lời lãnh tụ Kim Jong Un”.
Robert Dujarric, giám đốc Viện nghiên cứu châu Á đương đại tại Đại học Temple, Tokyo, cho biết các ngôi trường này là công cụ tuyên truyền của Triều Tiên.
Học sinh ở Trường trung học Triều Tiên không được khuyến khích dùng tiếng Nhật, ngôn ngữ mà nhiều em sử dụng bình thường ở nhà. Các học sinh cũng được học một giáo trình dịch lại từ sách giáo khoa Nhật Bản sang tiếng Triều Tiên. Shin cho biết riêng với môn lịch sử hiện đại, các học sinh được dạy từ quan điểm của Triều Tiên.
Các loại thực phẩm Triều Tiên như cơm “bibimbap” và kimchi được bán trong căng tin của trường. Các học sinh trung học năm cuối thường về thăm Triều Tiên trong kỳ nghỉ Hè.
Các ngôi trường này được thành lập sau Thế chiến thứ 2, bởi những người Triều Tiên đã tới Nhật Bản trong quá trình nước này chiếm đóng Triều Tiên kéo dài 35 năm. Việc đất nước chia đôi hai miền về sau đã khiến người Triều Tiên chưa muốn trở về cố quốc. Họ lập ra các ngôi trường để chuẩn bị cho việc con cái họ sẽ hồi hương về sau này.
Nhật Bản hiện có khoảng 70 ngôi trường như thế, đào tạo 8.000 học sinh từ mẫu giáo cho tới khi vào đại học. Trong khi con số này đã sụt giảm so với mức hơn 40.000 học sinh của năm 1961 vì tỷ lệ sinh sụt giảm và bởi một số người Triều Tiên đã nhập quốc tịch Nhật Bản.
Tuy nhiên giờ đây, số phận của những ngôi trường này có thể phụ thuộc vào thái độ của Triều Tiên trong các cuộc đàm phán quanh số phận nhiều người Nhật Bản bị điệp viên Triều Tiên bắt cóc cách nay hơn 30 năm.
Mặc dù người Nhật Bản cho phép các ngôi trường tồn tại trong nhiều thật kỷ qua, sự tức giận liên quan tới việc Triều Tiên không trao trả những người bị bắt cóc đã khiến không ít dân Nhật Bản có hành vi phân biệt đối xử với các giáo viên và học sinh.
“Những đứa trẻ chẳng làm gì sai cả” – Pak Su Won, 50 tuổi, lãnh đạo một nhóm các bà mẹ của các học sinh theo học trường Triều Tiên ở Nhật Bản nói trong cuộc biểu tình trước cửa Bộ Giáo dục – “Chúng  chỉ là học sinh trung học bình thường. Tại sao lại phân biệt đối xử với chúng?”
Nhà chức trách Nhật Bản đã kêu gọi các ngôi trường này cắt mối liên hệ với Triều Tiên.
Khi lên nhậm chức hồi tháng 12/2012, Bộ trưởng Giáo dục Hakubun Shimomura nói rằng việc không có tiến triển trong hoạt động đàm phán về những người bị bắt cóc và mối liên hệ giữa các ngôi trường với Triều Tiên đã khiến công chúng Nhật Bản khó chấp nhận việc trợ cấp cho những trường này.
Lạ lùng các ngôi trường của người Triều Tiên ở Nhật Bản
Năm ngoái, chính quyền ông Abe đã không cho các gia đình có con theo học trường Triều Tiên nhận khoản trợ cấp thường niên trị giá 120.000 yen. Đây là khoản tiền mà những người có con theo học trung học ở Nhật Bản được nhận.
Shin nói rằng một số bậc phụ huynh đã không chịu nổi học phí của trường Triều Tiên nên đành đưa con tới học trường Nhật Bản. Shin cũng nói rằng một số trường Triều Tiên nằm ở các khu vực xa xôi tại Nhật Bản thậm chí còn không có đủ tiền trả lương cho các giáo viên.
Nhiều chính quyền địa phương cũng đã không cấp vốn cho trường Triều Tiên. Ví dụ tại tỉnh Osaka, nơi có đông người Triều Tiên thiểu số, chính quyền mới cắt khoản trợ cấp trị giá 185 triệu yen mỗi năm cho các trường Triều Tiên.
Hồi tháng 8 năm nay, Ủy ban chống phân biệt chủng tộc LHQ đã kêu gọi Nhật Bản đảo ngược quyết định không trợ cấp cho các trường Triều Tiên. Tuy nhiên tới tháng 9 năm nay, Shimomura nói rằng ông thấy “rất đáng tiếc” khi Ủy ban đã đưa ra lời kêu gọi như vậy.
Còn theo Trung tâm thông tin nhân quyền châu Á Thái Bình Dương, các vụ phát ngôn thù ghét nhằm vào người Triều Tiên ở Nhật Bản cũng đã tăng lên. Tháng 8 năm nay, ông Abe tuyên bố muốn xử lý triệt để vấn đề này.
Bất chấp việc bị ghét bỏ, các trường Triều Tiên ở Nhật Bản đã không còn dạy học sinh theo hướng chuẩn bị để trở lại định cư ở Triều Tiên. Thay vì thế, ông Shin nói rằng các trường đều trang bị kiến thức và kỹ năng để học sinh có thể phục vụ cho cộng đồng nơi các em đang sống ở Nhật Bản.
“Nếu 2 miền thống nhất, tôi có thể muốn trở lại và sống ở Triều Tiên” – cậu học trò 18 tuổi tên Kim thổ lộ – “Nhưng tôi đã sống trong một thời gian dài ở Nhật Bản. Đất nước này tiện nghi và dễ sống hơn nhiều”.
__ 
Yêu Nhật Bản - Con người Nhật Bản

Thứ Ba, 13 tháng 1, 2015


Những hành động của một đám đông cuồng nộ và thiếu hiểu biết có thể hủy hoại, làm vấy bẩn hình ảnh của cả một dân tộc. Tâm lý bài trừ cực đoan, sự vị kỷ, giận giữ và nông cạn của một tập thể công dân có thể phương hại khôn lường đến lợi ích của cả một quốc gia.
Bài học cay đắng từ tâm lý chống Nhật Bản của người Trung Quốc
Trung Quốc đã phải trả “nhiều cái giá” cho hành động dung dưỡng tâm lý bài Nhật ở trong nước. Đó là bài học mà cộng đồng thế giới cần ghi nhớ để đừng bao giờ lặp lại.
Cuối năm 2012, khi Nhật quyết định quốc hữu hóa 3 trong số 5 đảo thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, người dân đã có những phản ứng quá khích ở trong nước như biểu tình, đốt cờ Nhật, tấn công người Nhật, đập phá nhà máy của nhà đầu tư Nhật tại Trung Quốc và thậm chí là đốt cả xe Nhật của chính người Trung Quốc sở hữu.
Sự việc ngày càng đi xa, chính phủ Trung Quốc đã phải có những biện pháp mạnh để kiểm soát tình hình, nhiều người bị bắt và kết án vì lạm dụng bạo lực trong các cuộc biểu tình, phá hoại tài sản và đe dọa, khủng bố người khác.
Theo thống kê từ Reuters, chỉ trong khoảng tháng 9 và tháng 10/2012, người biểu tình Trung Quốc đã đập phá một khối tài sản trị giá khoảng 126 triệu USD, mà theo họ là của “bọn Nhật xấu xa”.
Thế nhưng, trớ trêu thay, người Trung Quốc không hiểu một điều rằng hầu hết số thiệt hại này sẽ được bảo hiểm chi trả còn các ông chủ Nhật sẽ chẳng bị thiệt hại bao nhiêu, ngoại trừ khoản chi phí do đóng cửa hoặc chuyển địa điểm đặt nhà máy ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc.
Trong khi đó, những công nhân Trung Quốc tham gia đập phá đã chính tay họ “đập đi nồi cơm” của chính mình. Khi nhà máy bị đóng cửa, họ trở thành những người đầu tiên chịu thiệt hại vì mất việc. Sau cuộc đốt phá, hàng trăm người Trung Quốc đã phải vào tủ, bỏ lại mẹ già, con thơ ở những vùng quê nghèo heo hút.
Những hành động trên của đám đông cuồng nộ không chỉ là một “vết ố” trong truyền thông hình ảnh quốc gia Trung Quốc, khiến báo giới cả trong nước và quốc tế chỉ trích dai dẳng mà còn giáng một cú đau vào nền kinh tế Trung Quốc: nhiều nhà đầu tư Nhật đã quay lưng, tìm cách tháo chạy khỏi Trung Quốc.
Theo Business Times, vốn đầu tư của Nhật tại Trung Quốc đã giảm từ 13,48 tỷ USD trong năm 2012 xuống còn 6,5 tỷ USD trong năm 2013 và tiếp tục giảm trong năm 2014. Nguồn tiền từ các nhà tài phiệt Tokyo đã liên tục chuyển hướng ra khỏi Bắc Kinh để chảy về Hà Nội và Bangkok.
Hàng loạt các tập đoàn sản xuất của Nhật đã tìm đường đi khỏi Trung Quốc vì quá sợ hãi trước “những người dân bình thường rất hiền lành và cởi mở với chúng tôi, đột nhiên họ trở nên hung dữ và tấn công chỉ vì tôi là người Nhật”, tờ Japan Times dẫn lời một doanh nhân Nhật nói.
The Times of India (Thời báo Ấn Độ) cho biết, sự ra đi của các doanh nghiệp Nhật, kéo theo tâm lý lo sợ của các doanh nghiệp Mỹ, Pháp tại Trung Quốc, cùng với sự xuống cấp của nhiều yếu tố đã khiến Trung Quốc không còn là nước thu hút được nhiều FDI nhất nữa. Theo khảo sát của hãng Dịch vụ Toàn cầu E&Y, tháng 11/2013, Trung Quốc đã chính thức bị mất ngôi “địa điểm đầu tư hấp dẫn nhất” về tay Ấn Độ, tụt xuống vị trí thứ 3, thua cả Brazil.
Ngành du lịch, dịch vụ của Trung Quốc cũng đồng thời chịu những tác động tiêu cực, không chỉ vì chính phủ Nhật khuyến cáo người dân Nhật không đi du lịch ở Trung Quốc khi đó (người Nhật đi du lịch nhiều nhất thế giới) mà còn vì “tiếng dữ đồn xa” trong cộng đồng du khách quốc tế.
Càng ở những đất nước văn minh, hành vi kỳ thị dân tộc càng bị cộng đồng lên án và tẩy chay mạnh mẽ.
Đó là những “cái giá” cụ thể, có thể đong đếm bằng cách quy ra giá trị kinh tế mà Trung Quốc đã phải trả, nhưng đó chưa phải là tất cả những gì Trung Quốc đã mất vì giữ tâm lý bài Nhật.
Cần phải nhắc lại rằng, cuộc biểu tình trên chỉ là biểu hiện “đỉnh điểm” của tâm lý bài Nhật ở Trung Quốc. Trước đó, Trung Quốc cũng bị truyền thông thế giới lên án vì “nuôi oán hận” quá lớn đối với người Nhật.
Tâm lý này không chỉ biểu hiện cụ thế ở xu hướng truyền thông, phim ảnh (mỗi năm, điện ảnh Trung Quốc “giết” hàng triệu lính Nhật) mà còn cả trên các diễn đàn, game, tranh ảnh, sách và cả các scandal phân biệt đối xử mang tính kỳ thị người Nhật ngoài đời thực.
Người Trung Quốc đã nhầm lẫn giữa chính phủ Nhật với công dân Nhật, trút giận lên tất cả những gì có dính dáng đến Nhật, thậm chí 1 người đàn ông Trung Quốc cùng vợ và con gái đã bị đám đông quá khích hành hung chỉ vì ông ta đi một chiếc xe hơi Nhật.
Trung Quốc đã có những nhà hàng treo biển “Không phục vụ người Nhật” hoặc “Người Nhật và chó không được vào”. Thậm chí, khi xung đột với các nước láng giềng lên cao, Trung Quốc đã ghép luôn cả cư dân của các nước này vào danh sách “những người bị oán hận”.
Ngày 28/2/2013, một nhà hàng ở Bắc Kinh đã trưng tấm biển: “Nhà hàng này không phục vụ người Nhật, người Philippines, Việt Nam và chó”. Ngay lập tức, hành vi này đã bị lên án cực lực bởi dư luận thế giới.
Tờ Huffington Post đã gọi đây là một hành vi phân biệt chủng tộc, nhiều tờ báo dẫn lại nguồn tin từ AFP cũng chỉ trích nặng nề nhà hàng trên, độc giả bất bình vì thật khó tin, ngay ở thế kỷ 21, giữa trung tâm Bắc Kinh sầm uất vẫn có thể còn những luồng tư tưởng “mông muội” đến thế.
Khi báo giới ồ ạt đưa tin, Trung Quốc ngay lập tức trở thành một danh từ đầy ác cảm đối với nhiều người mà trước đây họ vốn “không quan tâm” hay thậm chí là “có thiện cảm” với đất nước và con người Trung Quốc. Tâm lý ấy không chỉ lan rộng riêng ở Nhật, Philippines hay Việt Nam, mà còn trên toàn thế giới.
Không ai chê trách người Nhật vì họ bị kỳ thị, nhưng hầu hết độc giả, trong đó có cả chúng ta, đều lên án, chế giễu tâm lý bài Nhật một cách nhược tiểu và cực đoan của người Trung Quốc. Những hậu quả mà Trung Quốc phải trả giá đáng ra nên là một bài học mà mọi người dân Việt Nam phải ghi nhớ để không vấp lại sai lầm tương tự.
Những hành động của một đám đông cuồng nộ và thiếu hiểu biết có thể hủy hoại, làm vấy bẩn hình ảnh của cả một dân tộc. Tâm lý bài trừ cực đoan, sự vị kỷ, giận giữ và nông cạn của một tập thể công dân có thể phương hại khôn lường đến lợi ích của cả một quốc gia.
Vì vậy, trong những ngày này, người Việt hãy cứ giữ một trái tim nóng nhưng cần phải có một cái đầu lạnh khi có bất cứ một hành động nào nhân danh lòng yêu nước.
__ 
Yêu Nhật Bản - Con người Nhật Bản